Thiết kế và phát triển Mitsubishi_2MR

Vào năm 1921, Hải quân Đế quốc Nhật Bản đặt hàng cùng chi nhánh hàng không vừa mới thành lập của Mitsubishi ba kiểu máy bay để hoạt động trên các tàu sân bay, bao gồm một máy bay tiêm kích, một máy bay trinh sát và một máy bay ném ngư lôi. Mitsubishi đã thuê một nhóm kỹ sư Anh Quốc được lãnh đạo bởi Herbert Smith, nguyên thuộc Công ty Sopwith Aviation để thiết kế những chiếc máy bay này. Thiết kế chiếc máy bay trinh sát của Smith, được Mitsubishi đặt tên là 2MR, đã bay chuyến bay đầu tiên vào ngày 12 tháng 1 năm 1922.[2]

Kiểu 2MR có thiết kế tương tự như của chiếc máy bay tiêm kích cánh kép đương thời 1MF với khoang đơn bằng gỗ, nhưng được mở rộng để có thể mang một đội bay gồm hai người, và được cung cấp động lực bởi một kiểu động cơ Hispano-Suiza tương tự được sản xuất theo giấy phép nhượng quyền. Sau khi thử nghiệm thành công, kiểu 2MR được Hải quân Nhật chấp thuận và đặt tên chính thức là Máy bay trinh sát Hải quân Tàu sân bay Kiểu 10 (Kiểu 10 liên hệ đến năm 1921 khi nó được đặt hàng, vào năm thứ mười của Triều đại Taishō), và việc sản xuất được tiếp tục cho đến năm 1930, với tổng cộng 159 chiếc được chế tạo.[3]

Vào năm 1930, Mitsubishi phát triển hai kiểu máy bay nhằm đáp ứng nhu cầu của Lục quân Đế quốc Nhật Bản về một loại máy bay trinh sát tầm ngắn: kiểu 2MR7, một loại máy bay cánh kép được phát triển dựa trên 2MR và máy bay ném bom-ngư lôi B2M; và kiểu máy bay cánh đơn hạng nhẹ 2MR8; trong đó kiểu 2MR8 thành công và được đưa vào hoạt động dưới tên gọi Máy bay Trinh sát Kiểu 92. Loại máy bay này không liên quan đến kiểu 2MR của Hải quân.